Hội thảo Quốc tế: “Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế”

19/11/2008
Trong hai ngày mùng 3 và 4 tháng 11 năm 2006, Viện Văn học phối hợp với Viện Harvard-Yenching (Harvard-Yenching Institute) của Hoa Kỳ tổ chức Hội thảo về Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế (Vietnamese Literature in the Regional and International Context of Cultural Exchanges)

Đến dự hội thảo có gần 200 học giả đến từ các viện nghiên cứu, các trường đại học trong và ngoài nước. 65 bài tham luận của các nhà khoa học Việt Nam và nước ngoài đến từ Mỹ, Nga, Trung Quốc, Canada, Đài Loan, Hàn Quốc được trình bày theo 4 chủ đề chính :

-          Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2006).

-          Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa.

-          Vai trò của dịch thuật văn chương với sự phát triển của văn học dân tộc và văn học so sánh.  

-          Mối quan hệ tương tác giữa văn học với văn học dân gian và văn học với các ngành nghệ thuật khác.

Về Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới: Các nhà khoa học đã tập trung trao đổi, đánh giá, thảo luận về thành tựu văn học Việt Nam sau 20 năm (1986-2006) tiến hành công cuộc đổi mới; thực trạng, triển vọng của nền văn học, khả năng hội nhập của văn học Việt Nam đối với khu vực và thế giới trong xu thế toàn cầu hóa.

Theo PGS.TS Nguyễn Bích Thu (Viện Văn học): Văn học hôm nay đã hấp thu vào nó các yếu tố kỳ ảo, trào lộng, bi kịch trong kho tàng văn học quá khứ của dân tộc; đã tiếp thu tinh hoa văn học thế giới như các khuynh hướng, trào lưu lãng mạn, tượng trưng, siêu thực, huyền thoại, viễn tưởng, phi lý, tạo nên tính đa thanh, đa giọng điệu cùng sự đa dạng, độc đáo trong nghệ thuật trần thuật và cấu trúc tác phẩm.

PGS.TS Vũ Anh Tuấn (Viện Văn học) đi sâu khai thác tinh thần nhân văn trong văn học Việt Nam hiện đại có kết luận: Văn học Việt Nam thế kỷ XX đã thực sự tìm kiếm những giá trị nhân văn và chính điều này làm cho nó có sức phát triển và tạo nên nhiều đỉnh cao có sức sống vững bền. Tinh thần nhân đạo ấy tiếp tục được bổ sung và phát triển với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản để giải phóng con người, giải phóng dân tộc với mục tiêu cao nhất là Độc lập, Tự do.

GS.TSKH Lê Ngọc Trà (Đại học sư phạm TPHCM) lại nhìn nhận từ góc độ văn học “vị nghệ thuật” và “vị nhân sinh”: Quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật thường bị phủ nhận và gần như tồn tại không đáng kể trong lịch sử văn học dân tộc. Văn chương đối với người Việt Nam là một hình thức sống, một cách ứng xử đối với thế giới và với cuộc đời....văn chương Việt Nam mặc dù nặng về đạo vẫn không bị mất tính nghệ thuật, không bị biến thành sự minh họa hoàn toàn cho những tư tưởng đạo đức hay triết học.

Vấn đề Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa được đề cập sâu trong quá trình hội thảo. Các nhà khoa học đã thảo luận về những vấn đề như mối quan hệ giữa giáo dục và phát triển văn chương đương đại, giữa văn hóa với văn học, giữa văn hóa chữ Hán với văn học, vấn đề giới trong văn chương...

Trong tham luận Mối quan hệ văn hóa- văn học nhìn từ lý thuyết hệ thống, PGS.TS Đỗ Lai Thúy (Tạp chí Văn học Nghệ thuật) nhận xét: văn hóa là một tổng thể, một hệ thống, bao gồm nhiều yếu tố trong đó có văn học. Văn hóa chi phối văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố. Văn học có tính độc lập tương đối và có sáng tạo. Sáng tạo đủ lớn thì có thể dẫn tới sự thay đổi của hệ thống.

Bàn về Thời trung đại văn học các nước khu vực văn hoá chữ Hán; TS Đoàn Lê Giang (ĐH KHXH và NV, ĐHQG TP HCM) tham luận: Do điều kiện lịch sử xã hội tương đồng nên văn học cổ điển Việt Nam có những bước đi chung với văn học khu vực Đông Á. văn học Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản ở mức độ khác nhau đều có dòng văn học yêu nước. Tư tưởng yêu nước bắt rễ sâu xa và được nuôi dưỡng không ngừng bằng đạo thờ thần. Tư tưởng yêu nước trong văn học Việt Nam ra đời khá sớm và thường gắn với tư tưởng hoà bình và nhân đạo, ít có tính dân tộc cực đoan, hẹp hòi.

 

Vai trò của dịch thuật văn chương và sự phát triển của văn chương dân tộc cũng là chủ đề được nhiều  học giả quan tâm. Các tham luận Ý thức văn hóa trong dịch thuật văn chương ở Việt Nam cuối thế kỷ 19-đầu thế kỷ 20 (TS. Nguyễn Văn Hiệu- ĐH KHXH và NV, TP HCM), Vai trò của dịch thuật văn chương và sự phát triển của văn học Việt Nam (PGS. Nguyễn Văn Hoàn, Viện Văn học)... đã làm sáng tỏ phần nào vai trò của dịch thuật đối với văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và thế giới hiện đại.

Theo TS. Nguyễn Văn Hiệu - Bộ môn Văn hóa học ĐH KHXH-NV TP.HCM: Việc dịch thuật văn chương nghiêm túc ở thời kỳ nào cũng cần xuất phát từ ý thức văn hóa trong dịch thuật. Trong bối cảnh toàn cầu hóa văn hóa hiện nay, việc định hướng dịch thuật, giới thiệu những tác phẩm văn học nước ngoài vừa phù hợp với tâm thức văn hóa của dân tộc, vừa góp phần gợi những đường hướng sáng tác mới lại càng cần thiết hơn bao giờ hết.

 

Mười bốn tham luận và ý kiến của các nhà khoa học về chủ đề Quan hệ tương tác giữa Văn học truyền miệng và Văn học viết, Văn học và Nghệ thuật đã khắc họa được những nét cơ bản quan hệ tương tác giữa văn học với sân khấu điện ảnh, hội họa, triết học, lễ hội văn hóa... Tiêu biểu như tham luận: “Triết học nhẹ nhàng” của Trịnh Công Sơn (GS. JOHN C.SCHAFER, Đại học Humboldt, Mỹ), Văn chương với hội họa ở Việt Nam (PGS.TS Phạm Vĩnh Cư, Viện Văn học)...

Theo TS. Trần Trọng Đăng Đàn (Viện Khoa học Xã hội vùng Nam bộ): Giữa văn học mà đặc biệt là giữa tiểu thuyết với vô tuyến truyền hình còn có sự hỗ trợ nhau, giao hòa với nhau để cùng nhau tăng tốc phát triển.

Đạo diễn Đặng Nhật Minh lại đánh giá mối quan hệ giữa văn học và và điện ảnh trong tính thẩm mỹ: văn học và điện ảnh tuy là những người bạn đồng hành nhưng hai lĩnh vực đó hoàn toàn khác nhau. Một bên là chữ nghĩa, ngôn từ và một bên là hình ảnh và âm thanh. Cái khoái cảm có được khi ta đọc một tác phẩm văn học hay, khác cái khoái cảm sau khi ta xem xong một bộ phim hay. Nếu có một điểm chung nào đó giữa văn học và điện ảnh thì đó là tính thẩm mỹ. Cái cảm quan thẩm mỹ đã liên kết hai lĩnh vực này để chúng trở thành những người bạn đồng hành trên suốt chặn đường dài.

Hội thảo đã thành công bước đầu trong việc định hình những thành tựu và phát triển của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2006); góp phần xác định hướng đi của văn học Việt Nam trong quá trình giao lưu hội nhập quốc tế để khẳng định “tính cách” độc lập của mình trên “diễn đàn” văn học thế giới.

 

Trương Lương

Chú thích: Xem các tham luận tại địa chí http://www.vienvanhoc.org.vn/reader/?id=47&menu=69

  •  
     
  •