Sau khi nghe Phó Chủ tịch Viện KHXH VN kiêm Giám đốc Học viện Khoa học xã hội GS.TS.Võ Khánh Vinh trình bày khái quát về tình hình tổ chức và hoạt động của Học viện kể từ khi thành lập đến nay và các ý kiến phát biểu của các thành viên trong đoàn công tác, Chủ tịch Viện có ý kiến kết luận như sau:
1. Học viện đã đạt nhiều thành quả nổi bật sau gần hai năm hoạt động, có cơ sở để khẳng định mô hình Học viện đã đi đúng hướng, là định chế thống nhất quản lý đào tạo, phát huy thế mạnh đa ngành, liên ngành và nâng cao chất lượng đào tạo.
2. Học viện đã từng bước tổ chức hoạt động nề nếp, theo hướng chính qui, chuyên nghiệp và hiện đại của một cơ sở giáo dục đào tạo. Bước đầu đã xây dựng được niềm tin và tinh thần Học viện của các cán bộ, công chức, viên chức trong toàn Học viện.
3. Học viện đã rất chú trọng mở rộng qui mô (mở thêm mã ngành, tăng số lượng tuyển sinh) và từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, xây dựng và đưa vào thực hiện chương trình đào tạo theo tín chỉ (đây là điểm mới so với hệ thống đào tạo cũ), đã chú ý xây dựng giáo trình để giảm thời lượng giảng dạy trên lớp.
4. Học viện có sự quan tâm đặc biệt đến công tác kiện toàn tổ chức và công tác cán bộ. Mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ, bố trí sắp xếp hợp lý các phòng chức năng, xây dựng các Văn phòng khoa và bồi dưỡng cán bộ trợ lý khoa. Tuy nhiên, cần chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về mọi mặt, cả trình độ chuyên môn và ngoại ngữ, tác phong công sở để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
5. Học viện đã chú ý xây dựng, thiết lập các mối quan hệ giữa Học viện với các Viện nghiên cứu chuyên ngành, tuy bước đầu mối quan hệ này còn chưa thực sự tốt, còn cần điều chỉnh cả từ hai phía.
6. Học viện cần cân nhắc về số lượng hợp lý và tính khả thi đối với việc mở thêm mã ngành mới. Đối với các chuyên ngành đã có chương trình đào tạo bậc Tiến sĩ, việc mở thêm chương trình đào tạo cao học là cần thiết và đúng hướng. Tuy nhiên, cần có đánh giá sát thực về năng lực tổ chức, triển khai thực hiện, dựa trên qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về số lượng nghiên cứu sinh của giáo viên hướng dẫn tại cùng một thời điểm. Chú ý số lượng cán bộ đủ năng lực làm công tác đào tạo và đủ tiêu chuẩn, trình độ hướng dẫn, để từ đó cân nhắc lựa chọn việc mở thêm mã ngành đào tạo.
7. Cần chú trọng công tác nghiên cứu khoa học, tập trung hướng vào việc nghiên cứu phục vụ đào tạo (nghiên cứu xây dựng hệ thống giáo trình, nhất là đối với mã ngành mới, tạo tiền đề mở rộng mã ngành đào tạo mới).
8. Để giải quyết khó khăn trong việc mời giảng viên thỉnh giảng, Học viện cần chú trọng bổ sung và tăng dần đội ngũ cán bộ giảng viên cơ hữu theo hai hướng: chú trọng tuyển giảng viên có trình độ cao từ các cơ sở đào tạo khác; và tuyển dụng mới (cần tổ chức tuyển dụng nghiêm túc, chặt chẽ, tuyển dụng căn cứ trên các tố chất giảng viên, có phương pháp nghiên cứu tốt, có trình độ ngoại ngữ thành thạo).
9. Cần chú trọng hơn nữa công tác hợp tác quốc tế, liên kết đào tạo cùng cấp bằng. Học viện cần có bộ phận chuyên trách về hoạt động đào tạo liên kết, xây dựng đội ngũ giảng viên đào tạo liên kết quốc tế có trình độ ngoại ngữ giỏi.
10. Vấn đề xây dựng phong cách làm việc đã được Học viện chú trọng, cần tiếp tục cải tiến, tập trung theo các hướng: chính qui, hiện đại, chuyên nghiệp và chất lượng. Từng vị trí làm việc phải tuân thủ tinh thần trách nhiệm, kỷ cương, hiệu quả. Phải có bước chuyển về tư duy quản lý theo tinh thần đổi mới, như Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu: “chuyển từ chính phủ quản lý – điều hành sang chính phủ kiến tạo – phát triển”. Cần đặc biệt chú ý đến văn hóa công sở, đạo đức công vụ, trách nhiệm và tinh thần phục vụ giảng viên và học viên.
11. Với môi trường cạnh tranh ngày càng cao về đào tạo, trong những năm trước mắt, Học viện cần tập trung phát triển ở trụ sở chính ở Hà Nội, dành sự quan tâm thích đáng đối với trụ sở ở Đà Nẵng và ở TPHCM. Trong công tác tổ chức quản lý, cần phân khu quản lý để nâng cao hiệu quả, trách nhiệm của từng cán bộ và bộ phận, nâng cao chất lượng và đảm bảo các điều kiện cần thiết cho hoạt động đào tạo.
12. Cần làm tốt hơn nữa mối quan hệ giữa Học viện với các Viện nghiên cứu chuyên ngành thuộc Viện KHXH VN. Xem xét, đề xuất chỉnh sửa, bổ sung những điểm bất cập, chưa phù hợp qua thực tế thực hiện Quy chế phối hợp giữa Học viện KHXH với các Viện chuyên ngành thuộc Viện KHXH VN ban hành theo Quyết định số 493/QĐ-KHXH ngày 29/3/2011 của Chủ tịch Viện KHXH VN. Trong phối hợp giữa Học viện và Viện nghiên cứu chuyên ngành, nên xác định rõ ràng từng tình huống cụ thể: Viện trưởng Viện nghiên cứu chuyên ngành đồng thời kiêm Trưởng khoa; và Viện trưởng không kiêm Trưởng khoa, để nâng cao trách nhiệm, năng lực lãnh đạo của các Trưởng khoa trong hoạt động chung của Học viện, phát huy năng lực của mọi cán bộ trên cương vị giảng viên thỉnh giảng cũng như trên cương vị là giảng viên cơ hữu của Học viện. Cần suy nghĩ đến việc đào tạo, bồi dưỡng các Trưởng khoa chuyên trách (không nhất thiết phải là Viện trưởng Viện nghiên cứu chuyên ngành) để tập trung toàn lực vào công tác đào tạo.
Về các kiến nghị của Học viện:
13. Về bổ sung tăng thêm chỉ tiêu biên chế: Ban Tổ chức cán bộ cần làm việc với Bộ Nội vụ về biên chế năm 2012 của Viện KHXH VN nói chung và của Học viện KHXH nói riêng.
14. Về cơ sở vật chất: Ban Kế hoạch – Tài chính chủ động làm việc với Bộ Tài chính để có những điều chỉnh trong nguyên tắc phân bổ tài chính theo kế hoạch hàng năm phù hợp với thực tế phát triển của Học viện nói riêng và Viện KHXH VN nói chung. Học viện cần xây dựng Đề án đầu tư sửa chữa lớn, xây dựng nhỏ của Học viện KHXH trình các cấp có thẩm quyền để có được nguồn kinh phí đầu tư từ ngân sách nhà nước.
15. Về công tác nghiên cứu khoa học: chú ý nghiên cứu để xây dựng giáo trình, lựa chọn các chủ đề nghiên cứu để phục vụ đào tạo. Tập trung hoàn thành Chiến lược phát triển Học viện KHXH trình Chủ tịch Viện trong nửa đầu năm 2012./.