Đây là một chuyên đề trong chuỗi chuyên đề nghiên cứu về “Các động thái kinh tế - xã hội Việt Nam”, dự kiến các chuyên đề nghiên cứu tiếp theo sẽ được tổ chức toạ đàm đều đặn khoảng 1,5 – 2 tháng một lần.
Buổi toạ đàm là nơi gặp gỡ, trao đổi các kiến giải của các nhà nghiên cứu về kinh tế Việt Nam đến từ Trung tâm Phân tích và Dự báo, Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn và Trung tâm VAPEC ...
Trong chuyên đề này khung phân tích của Nhóm nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các yếu tố: vốn, lao động, đất đai, công nghệ tác động đến 3 nhóm đối tượng chính là hộ gia đình, doanh nghiệp và Nhà nước ở các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, từ đó xác định mức độ tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu.
Những vấn đề liên quan đến tăng trưởng, lạm phát, việc làm được phân tích theo số liệu trong những năm 1996-2006, các mức đánh giá về tăng trưởng từ các phía cung - cầu; Cơ cấu kinh tế và tăng trưởng phân theo khu vực kinh tế được phân tích dựa vào giá thực tế và giá so sánh để xác định được mức đóng góp và tăng trưởng tính theo GDP trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp, xây dựng; dịch vụ (số liệu kinh tế năm 2000-2006).
Các mức tăng trưởng kinh tế khu vực I, II, III những năm 1998-2006 cũng được phân tích chi tiết, các biểu đồ trình bày cơ cấu tăng trưởng theo khu vực kinh tế cho thấy mức độ phát triển của các khu vực trong cả nước luôn đạt sự ổn định và tăng trưởng đáng kể, chỉ số FDI trong cơ cấu lao động tăng hằng năm (nếu năm 2005 là 1.6 thì năm 2006 ước đạt 1.8). So sánh năng suất lao động trong ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản; công nghiệp và xây dựng; dịch vụ (năm 2000-2006) cho thấy kết quả đáng mừng đó là năm 2000 từ mức đạt 7.276 đến năm 2006 đã tăng lên tới 9.461. Các phân tích cũng chỉ rõ hiệu quả sử dụng vốn của Nhà nước; ngoài Nhà nước; đầu tư nước ngoài đến năm 2006 đạt chỉ số tăng 8.4%.
Trong phần nghiên cứu về thể chế kinh tế Nhóm nghiên cứu cũng tổng hợp được hạ tầng thể chế kinh tế hiện nay bao gồm gần 17.500 văn bản trên tổng số hơn 42.000 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó riêng luật kinh tế là 51 trên tổng số 116 luật và bộ luật hiện hành, pháp lệnh kinh tế là 19 trên tổng số gần 100 pháp lệnh còn hiệu lực. Số liệu phân bổ các văn bản như sau: thuế và lệ phí 29.4%, thương mại 9.4%; hải quan 7.8%, tài chính và ngân hàng 6.8%, lao động và tiền lương 5.3%, doanh nghiệp 4.6%, công nghiệp và xây dựng 3.7%, nông nghiệp 3.1%, đầu tư 3.1%, nhà đất 2.8%, giao thông vận tải 2.4%, khoa học và công nghệ 1.6%, chứng khoán 0.04%, du lịch 0.02%... Các hoạt động về thị trường hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng, thị trường hàng hoá trung gian, thị trường yếu tố sản xuất như: tài chính, lao động, đất đai và bất động sản cũng được đề cập và phân tích kỹ lưỡng.
Buổi toạ đàm được nhiều đại biểu, cán bộ nghiên cứu tham gia đặt câu hỏi chất vấn, nhiều ý kiến trao đổi về những vấn đề đặt ra khi nghiên cứu kinh tế Việt Nam năm 2006, các phát hiện và đánh giá về triển vọng kinh tế 2007.
Phạm Vĩnh Hà